Kỹ thuật nuôi ghép cá đối mục trong vùng hạ triều ô nhiễm

Nuôi xen ghép tôm, cua, cá, kình, cá dìa …là mô hình được người dân áp dụng chuyển đổi từ diện tích nuôi chuyên tôm không hiệu quả từ năm 2005 đến nay và thực tế đã khẳng định lợi nhuận của mô hình nuôi này đem lại không cao như nuôi chuyên tôm sú nhưng tính rủi ro thấp do ít xảy ra dịch bệnh bên cạnh đó đây còn là mô hình nuôi mang tính bền vững cao vì ít gây ô nhiễm môi trường. Giống tôm, cua là hai đối tượng đã được sinh sản nhân tạo thành công còn nguồn giống cá kình và cá dìa vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào con giống tự nhiên nên nguồn giống không chủ động, có những năm nguồn giống không đủ phục vụ nhu cầu người nuôi.

Cá Đối mục là loài cá ăn tạp thành phần chủ yếu là mùn bã hữu cơ, các loại rong ngoài ra cá đối mục ăn được thức ăn công nghiệp. Đặt biệt khi nuôi xen ghép không ăn tôm cua nuôi, có nguồn giống sinh sản nhân tạo. Vì vậy rất phù hợp để đưa vào nuôi xen ghép cùng với tôm sú và cua. Để giúp bà con nông ngư dân phát triển mô hình nuôi xen ghép tôm sú, cua cá đối mục. Sau đây, xin giới thiệu kỹ thuật nuôi xen ghép các đối tượng này trong ao.

1. Đặc điểm sinh học đối tượng nuôi

 Tôm sú

– Tôm sú thuộc loại rộng nhiệt, có thể sống ở khoảng nhiệt độ từ 12 – 370C, nhiệt độ thích hợp nhất để tôm sú sinh trưởng, phát triển là 25 – 300C.

– Độ mặn thích hợp từ 15 – 38 0/00 khi tôm đã lớn.

– Hàm lượng ôxy từ 3 – 15 mg/l, tốt nhất từ 5 – 10 mg/l.

– pH từ 5 -9, thích hợp nhất từ 7,5 – 8,5.

– Trong tự nhiên tôm sú là loài ăn tạp, ưa ăn giáp xác, thực vật dưới nước, mảnh vụn hữu cơ, giun nhiều tơ, động vật hai mảnh vỏ, bắt mồi nhiều khi thủy triều rút.

– Trong ao nuôi hoạt động bắt mồi diễn ra nhiều vào lúc sáng sớm hay chiều tối.

– Tôm sú là loài lớn nhanh, có thể đạt kích thước thương phẩm (30 – 50 con/kg) sau 3 – 4 tháng nuôi với con giống P10-15.

Cua

– Cua biển là loài phân bố rộng, tuy nhiên, nhiệt độ thích hợp nhất từ 25-300C. Cua chịu đựng pH từ 7.5-9.2 và thích hợp nhất là 8.2-8.8. Cua thích sống nơi nước chảy nhẹ, dòng chảy thích hợp nhất trong khoảng 0.06 – 1.6m/s.

– Giai đoạn cua con, tiền trưởng thành và trưởng thành: ăn cua nhỏ, cá, xác động vật chết, nhuyễn thể… Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiế m ăn vào ban đêm.

Cá đối

– Cá đối là loài rộng muối và rộng nhiệt phân bố rộng rãi các thủy vực nước ven biển vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới. Cá có thể chịu được nhiệt độ từ 3 – 350C, nhiệt độ thích hợp từ 15 – 250C. Cá có thể sống ở độ mặn 0 – 400/00, thích hợp nhất từ 15 – 300/00.

– Cá Đối mục là loài cá ăn tạp  thành phần chủ yếu là mùn bã hữu cơ, các loại rong và giáp xác nhỏ ngoài ra cá đối mục ăn được thức ăn công nghiệp. Vì vậy ,đây là đối tượng nuôi phù hợp với những ao nuôi vùng hạ triều ô nhiễm.

2.  Kỹ thuật nuôi xen ghép

Lựa chọn ao nuôi

-Nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm, xa khu dân cư, nước thải công nghiệp. Đảm bảo các yếu tố môi trường ổn định. Giao thông đi lại thuận lợi, gần nguồn cá giống.

– Các yếu tố môi trường phù hợp để nuôi xen ghép tôm sú, cua và cá đối mục như sau:

Sttt Các yếu tố môi trường Khoảng thích hợp
1  Độ mặn 10 – 250/00
2  Nhiệt độ 22 – 300C
3  Hàm lượng oxy >4mg/l
4  pH 7,5 – 8,5

Diện tích ao nuôi  tốt nhất là từ 2.000 – 5.000m2.

Độ sâu mực nước là từ 1,2 – 1,5m, ao có cống cấp và cống thoát riêng biệt

Cải tạo ao nuôi

Tháo cạn nước, bắt hết cá tạp (hoặc dùng Saponin để diệt tạp, liều lượng 15ppm (15 g/m3), nạo vét ao bằng máy hay thủ công, bón vôi liều lượng 7 – 10kg/100m2 ao,  tiến hành phơi ao 3 -5 ngày.

– Cấp nước vào ao nuôi qua lưới lọc nhằm ngăn cá tạp, nòng nọc mức  với mức nước lên 1,0 – 1,2m.

– Gây màu nước bằng phân NPK(16-16-8), liều lượng 2ppm(2g/m3).

– Sau 3 ngày màu nước lên xanh lá chuối non tiến hành thả giống.

– Tiến hành rào lưới xung quanh ao nuôi để tránh thất thoát.

– Thả ít rong vào ao nuôi làm nơi trú ẩn cho cua

Lựa chọn và thả giống

*  Chọn con giống:

– Cá Đối mục: Nên chọn giống khỏe mạnh đều kích cỡ, không bị xây xát, hoạt động nhanh, nhìn  bên ngoài màu sắc tươi sáng, không bị dị hình, dị tật.

– Cua khay: Chọn cua đồng đều kích cỡ, màu sắc sáng bóng, cua hoạt động tốt không có dấu hiệu bệnh, cua đầy đủ que càng không bị tổn thương, mất mát các phần phụ.

– Tôm sú có màu nâu xám tự nhiên, hoạt động nhanh nhẹn, cở tôm đồng đều và đạt từ 1,2 – 1,3 cm(P15), các bộ phận phụ đầy đủ không bị dị tật dị hình.Chọn tôm giống đã qua kiểm dịch không nhiễm bệnh đốm trắng, tỉ lệ MBV thấp < 10%.

*  Mật độ nuôi xen ghép: 

– Cá đối: 0,2 – 0,3 con/m2, kích cỡ 3 – 5 cm/con

– Tôm sú: 3 – 5 con/m2, kích cỡ 3 – 5 cm/con, nếu thả tôm post 5 – 8 con/m2, nên ương riêng trước khi thả vào ao nuôi xen ghép để đảm bảo tỉ lệ sống.

– Cua: 0,3 – 0,4 con/m2, cua khay cỡ c2, nếu sử dụng cua giống lớn từ tự nhiên mật độ giảm đi một nửa. Đối với cua khay trong ao nên bố trí giai hoặc có sẵn ao nhỏ để ương cua khoảng 2 tuần trước khi thả ra ao nuôi.

*  Phương pháp thả  giống:

– Nên thả giống vào lúc sáng sớm khoảng 6 đến 9 giờ sáng  hay chiều mát 16 đến 17 giờ, không nên thả giống khi trời mưa hoặc gió mùa đông bắc.

– Trước khi thả đới với tôm, cá đối mục nên ngâm các bao giống trong ao  10 – 15 phút để cân bằng nhiệt độ, sau đó mở túi  cho nước vào từ từ rồi thả giống ra ao nuôi, thả giống đầu hướng gió. Đối với cua khay nên thả đều khắp ao và thả vào những điểm nền đáy ao sạch cát nhiều.

– Thứ tự thả giống:

Nếu thả tôm sú qua ươm kích cở 3 -5cm/con: Nên thả cua khay trước khoảng 2 tuần tiến hành thả tôm và sau 1 tuần tiến hành thả cá.

Nếu thả tôm post (P15): Nên thả tôm sú trước sau 3 tuần tiến hành thả cua khay và sau 2 tuần tiến hành thả cá đối mục.

* Chăm sóc quản lý

Thức ăn và cách cho ăn:

–  Cá đối: Sử dụng thức ăn viên nổi công nghiệp dành cho cá (thức ăn có độ đạm 22 – 30%),

– Tôm sú: Sử dụng thức ăn công nghiệp dành cho tôm, hoặc thức ăn chế biến.

– Cua: Sử dụng thức ăn cá tạp, giai đoạn nhỏ có thể sử dụng thức ăn công nghiệp của tôm để cho cua ăn.

– Nuôi xen ghép, tuy theo giai đoạn phát triển của tôm cua và cá đối trong ao có thể kết hợp 2 hoặc 3 loại thức ăn trên để cho ăn.

– Giai đoạn đầu: Lượng thức ăn công nghiệp hàng ngày 5 – 10% trọng lượng tổng đàn nuôi.

– Sau tháng nuôi thứ 3 trở lên lượng thức ăn trong ngày 3 – 5% trọng lượng đàn trong ao.

Cách cho ăn:

Thức ăn được rải đều trong ao, ngày có thể cho ăn 2 lần sáng  7-8 giờ và chiều 5-6 giờ, có thể cho ăn bổ sung vào ban đêm đối với tôm.

Thức ăn của tôm được cho ăn vào buổi chiều tối nhiều hơn cho ăn vào buổi sáng, ngược lại thức ăn dành cho cá cho ăn vào buổi sáng nhiều hơn buổi chiều.

Trong một bửa ăn, cho cá đối mực ăn trước sau đó đến cho tôm cua ăn. Vì cá đối mục rất háu ăn, nếu ăn cùng 1 lần cá dành thức ăn của tôm.

Một số điểm cần chú ý khi cho ăn:

Thức ăn phải đảm bảo chất lượng và số lượng

Kiểm tra sức ăn của tôm bằng cách dùng vó lượng thức ăn cho vào vó 1-2% tổng thức ăn tôm/ 1 bửa ăn, sau thời gian cho ăn 1,5 – 2 tiếng nếu thấy lượng thức ăn đưa vào được tôm ăn hết nhanh bửa sau tăng thêm thức ăn hoặc thấy lượng thức ăn còn dư thừa bửa sau nên giảm lượng thức ăn.

Kiểm tra sức ăn của cá bằng quan sát trên mặt ao, sau khi rải thức ăn 1,5 – 2 tiếng nếu thấy lượng thức ăn đưa vào được cá ăn hết nhanh bửa sau tăng thêm thức ăn hoặc thấy lượng thức ăn còn dư thừa bửa sau nên giảm lượng thức ăn.

Cho ăn nhiều vào ngày thời tiết đẹp và vào ngày thời tiết xấu hoặc trước khi mưa nên điều chỉnh giảm lương thức ăn.

Để đảm bảo cho tôm, cua nuôi ăn đầy đủ thức ăn, cần cho cá đối mục ăn trước khi cho tôm cua ăn.

* Quản lý ao nuôi

Định kỳ 7 – 10 ngày thay nước hoặc cấp nước thêm cho ao, lượng nước thay 20 – 30%.

Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, độ kiểm, DO và độ mặn để có biện pháp điều chỉnh phù hợp.

Duy trì mực nước ao nuôi đảm bảo độ sâu mức nước ≥ 1,2m để ổn định nhiệt độ nước cho ao nuôi. Vào những ngày thời tiết nắng nóng hoặc mưa rét nên nắng mức nước ao nuôi lên trên 1,2m để tránh sự biến động nhiệt độ nước.

Thường xuyên  kiểm tra bờ đê, ao, cống, lưới chắn không để tôm, cua, cá thoát ra ngoài.

Hàng ngày kiểm tra tình trạng hoạt động của cá, tôm và cua để có biện pháp xử lý kịp thời.

Thức ăn cho cá ăn phải đảm bảo chất lượng đảm bảo đủ chất dinh dưỡng đúng liều lượng, thức ăn không ẩm mốc.

Định kỳ 15 ngày kiểm tra trọng lượng tôm, cua và cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

3. Thu hoạch

          Đối với hình thức nuôi xen ghép cá đối mục nên áp dụng hình thức thu tỉa bớt sản phẩm rồi mới tiến hành thu toàn bộ.

Sau thời điểm nuôi 3 – 4 tháng tiến hành thu tỉa đối với tôm cua đạt kích  cỡ thương phẩm. Có thể tiến hành thả thêm cua giống để nuôi tiếp đợt mới. Riêng cá Đối Mục sau 5 – 6 tháng tiến hành thu tỉa cá đạt trọng lượng (0,4 kg/con) tiến hành  thu tỉa dần.

Đối với những ao bị ảnh hưởng bởi lũ lụt cần phải thu hoạch toàn bộ trước khi mưa lũ về. Những ao ít bị ảnh hưởng lũ lụt có thể nuôi vượt lũ để thu cá lớn hơn nhưng cần phải rào chắn lưới kĩ tránh thất thoát cá vào mùa mưa lũ. Nên thu vào lúc trời mát tránh gây ảnh hưởng đến lượng đến tôm, cá nuôi và lựa chọn thời điểm thu hoạch để giá bán cao, mang lại hiệu qua kinh tế cao.

Theo Nguyễn Thị Thu Hà, Trung tâm khuyến nông Huế

2 bình luận trong “Kỹ thuật nuôi ghép cá đối mục trong vùng hạ triều ô nhiễm”

Ý kiến của bạn