Thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài, xen lẫn mưa trái mùa, làm cho việc quản lý môi trường ao nuôi tôm khó khăn hơn, tạo điều kiện cho dịch bệnh trên tôm bùng phát. Để giảm thiệt hại do dịch bệnh, cần tuân thủ quy trình kỹ thuật nuôi tôm.
Lưu ý trước vụ nuôi
Trước khi vào vụ tôm mới, cần phải có thời gian để nền đáy ao tôm hồi phục, cải tạo ao đầm… Chỉ nên thả nuôi nuôi 1 vụ/năm đối với tôm sú, và 2 vụ/năm đối với tôm thẻ chân trắng.
Cần phải sên vét lại ao nuôi, loại bỏ lớp bùn đen ra khỏi ao (đối với ao cũ), cải tạo bằng cơ giới hóa (với cả ao cũ và ao mới) đảm bảo các tiêu chí: diện tích thích hợp 0,3 – 0,5 ha, độ sâu tối ưu 1,2 – 1,5 m. Tiếp theo, bón vôi CaO hoặc CaCO3 liều lượng 700 – 1.000 kg/ha (pH đất > 6), phơi ao 7 – 10 ngày với mục đích tiêu diệt hết mầm bệnh của vụ nuôi trước.
Cần có ao lắng với tỷ lệ khoảng 30% tổng diện tích chủ động việc cấp nước vào ao nuôi. Cùng đó, phải thường xuyên theo dõi kết quả quan trắc môi trường khi cần lấy nước vào ao. Nước cấp vào ao nuôi cần cho qua qua túi lọc và xử lý thông qua ao lắng bằng cách để nước 3 – 5 ngày kết hợp với quạt nước để trứng giáp xác nở hết, sau đó diệt khuẩn, diệt tạp bằng Chlorine liều lượng 25 – 30 kg/1.000 m3, Formol liều lượng 20 – 30 lít/1.000 m3 hoặc thuốc tím (KMnO4) liều lượng 5 – 8 kg/1.000 m3.
Với việc gây màu nước, có thể sử dụng sản phẩm có chứa các thành phần chủ yếu như các vi sinh vật có lợi (nhóm Bacillus subtilis, Lactobacillus…), các vitamin, axit amin thiết yếu theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Đối với những ao khó gây màu, có thể dùng chế phẩm sinh học kết hợp bón phân urê (2 – 3 kg/1.000 m3), bột cá (0,5 – 1 kg/1.000 m3) liên tục vài ngày đến khi ao nuôi đạt các tiêu chuẩn độ trong (30 – 40 cm), pH (7,5 – 8,5), độ kiềm (80 – 120 ppm), khí độc (< 0,1 ppm)… tạo cho ao nuôi có màu xanh lục, vàng khuê thì tiến hành thả tôm giống.
Cần chọn con giống tôm sú đạt chuẩn PL15; tôm thẻ chân trắng PL12. Tôm giống trong đàn có độ đồng đều cao, khỏe mạnh, không nhiễm bệnh.
Khi thả tôm giống cần chọn thời điểm trời mát (sáng hay chiều tối) và tiến hành ngâm bao tôm vào nước khoảng 30 phút để cân bằng nhiệt độ giữa nước tôm trong bọc và ao nuôi trước khi thả. Mật độ thả nuôi nên 20 – 30 con/m2 với tôm sú, 60 – 80 con/m2 với TTCT; thả quá dày sẽ khó quản lý, dễ xảy ra dịch bệnh, rủi ro cao.
Quản lý môi trường ao
Với ao đang nuôi, cần hạn chế tối đa việc cấp nước, chỉ xả bớt nước khi trời mưa to. Phải thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết, môi trường để có biện pháp quản lý tôm nuôi phù hợp, bổ sung khoáng chất cần thiết, nhất là nhóm hỗ trợ chức năng gan, tăng cường hệ miễn dịch nhằm tăng cường sức đề kháng cho tôm, đồng thời theo dõi kết quả quan trắc môi trường và mầm bệnh để kịp thời có kế hoạch chủ động phòng, chống dịch bệnh.
Hằng ngày, thường xuyên theo dõi, kiểm tra sức khỏe tôm nuôi, nếu phát hiện dấu hiệu bệnh cần xử lý kịp thời để hạn chế thiệt hại. Khi trời mưa nên bón vôi trên bờ ao và bón trực tiếp xuống ao để hạn chế sự thay đổi pH.
Trong quá trình nuôi chỉ sử dụng thức ăn chất lượng cao, cho tôm ăn đúng nhu cầu, không dùng thức ăn hết hạn dùng hoặc bị mốc cho tôm ăn. Định kỳ bổ sung Vitamin C, khoáng chất, men tiêu hóa… vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm.
Trong mọi trường hợp cần tránh xáo động môi trường nước ao nuôi, nhất là tránh quan điểm ao tôm không có màu thì gây tảo, ngược lại tảo dày thì cắt; cần chú ý điều kiện đất đai, thời tiết để tránh rủi ro. Tùy theo chất đất, độ mặn, thời tiết mùa vụ mà màu nước sẽ tương ứng theo; quan trọng là tôm sống được, ăn được, phát triển được. Thực tế có những ao tôm chỉ vì màu nước quá sậm không “hợp nhãn” chủ ao mà phải cắt tảo làm cho tôm ngạt ôxy, ảnh hưởng đến sức khỏe tôm, thậm chí có trường hợp tôm chết. Trong trường hợp cần dùng hóa chất để xử lý nước ao tôm, phải chú ý vấn đề giải độc cho tôm, trước khi gây tảo phải tạo hệ đệm.
Khi tôm có biểu hiện bệnh, cần lấy mẫu tôm bệnh đi xét nghiệm bệnh tôm bằng PCR để xác định đúng nguyên nhân gây bệnh và có những biện pháp phòng ngừa phù hợp. Đặc biệt, với bệnh do virus gây ra, người nuôi phải báo ngay cho Trạm thú y, Trạm Thủy sản địa phương, Phòng NN&PTNT hoặc UBND xã, để được hướng dẫn cách ly và hỗ trợ hóa chất tiêu hủy kịp thời theo đúng quy định. Với ao nuôi đã thu hoạch xong, nước thải và các chất thải rắn phải được bơm vào khu vực riêng dành chứa bùn và chất thải; khi thải ra sông rạch phải thông báo cho những hộ xung quanh biết để hạn chế khả năng lây lan mầm bệnh.
Cần quản lý chặt các yếu tố môi trường nước ao nuôi như: pH, ôxy hòa tan, độ kiềm, NH3, độ trong… để đảm bảo các chỉ tiêu này luôn trong ngưỡng thích hợp nhất, nhất là mật độ tảo (độ trong) cần giữ ổn định trong suốt thời gian nuôi.
Theo Tạp chí thủy sản Việt Nam, 19/06/2015 ,