Sau khi phân tích về tình trạng nguồn nước, dữ liệu sẽ được ghi lại và truyền về máy tính thông qua mạng di động không dây (3G) chỉ trong vòng vài phút để người sử dụng có thể biết được nguồn nước của mình có đảm bảo hay không. Đặc biệt, hệ thống này cũng có khả năng truyền dữ liệu qua điện thoại di động, giúp người dân có thể theo dõi tình trạng nguồn nước dù đang ở bất cứ nơi đâu.
Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm là ngành có độ rủi ro cao nhất. Chỉ tính riêng khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, hàng năm, dịch bệnh trên tôm đã làm nhiều hộ nuôi trồng rơi vào cảnh tay trắng, nợ nần.
Cụ thể, trong năm 2004, 28% số hộ thả nuôi tôm sú bị thiệt hại nặng do tôm nuôi bị chết. Năm 2005, con số này là 34% và năm 2006 là 20%. Đặc biệt, trong 2 tháng 4-5/2011, dịch bệnh đã tàn phá 90% diện tích nuôi tôm ở Sóc Trăng, với thiệt hại kinh tế ước tính hơn 1.000 tỷ đồng.
Bên cạnh dịch bệnh, việc xuất khẩu tôm của nước ta cũng gặp nhiều khó khăn do các nước nhập khẩu sử dụng hàng rào kỹ thuật về dư lượng chất kháng sinh. Điều này dẫn tới việc, không ít lô hàng của chúng ta bị trả về do không đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Trong năm 2015, giá trị xuất khẩu tôm của chúng ta đã giảm 30% so với cùng kỳ năm 2014, gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp cũng như uy tín của Việt Nam.
Theo TS. Đoàn Đức Chánh Tín, Trưởng bộ phận Nghiên cứu & Triển khai, Phòng thí nghiệm công nghệ Nano, rủi ro cao trong việc nuôi tôm không phải do kỹ thuật khó khăn mà do tác động của môi trường, nguồn dịch bệnh phát tán theo nguồn nước. “Con tôm là loài sinh vật mẫn cảm với các thay đổi, dù là nhỏ nhất của môi trường. Do đó, chỉ cần nguồn nước không đảm bảo, tôm rất dễ sinh bệnh và chết hàng loạt. Khi tôm bệnh, nếu không muốn tôm chết, không còn cách nào khác người nông dân phải sử dụng đến thuốc kháng sinh với hy vọng còn nước còn tát. Điều này lại dẫn đến hệ quả, tôm có dư lượng thuốc kháng sinh cao, không đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu. Từ đó, tạo nên một vòng xoay không có điểm dừng”.
Cũng theo TS. Tín, để giải quyết vấn đề này, hiện chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp như ngăn ngừa bệnh từ xa như kiểm soát con giống, thức ăn, môi trường nước nuôi tôm… Đồng thời, áp dụng các quy trình VietGAP để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng xuất khẩu ra thị trường khó tính như Nhật, Mỹ, châu Âu… Tuy nhiên, con giống, dịch bệnh hay quy trình nuôi trồng chúng ta có thể kiểm soát được, nhưng môi trường nước thì tương đối khó khi hệ thống các phòng thí nghiệm vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của người nuôi tôm. Đơn cử, “khi muốn kiểm tra chất lượng nước, người nuôi tôm phải múc nước từ dưới ao mang đến các phòng thí nghiệm phân tích. Để nhận được kết quả ít nhất cũng tốn mất một ngày, điều này làm cho phản ứng của người dân đối với dịch bệnh sẽ trở nên chậm trễ, gây hậu quả nặng nề”.
Để giải quyết vấn đề này, các kỹ sư thuộc Bộ phận Nghiên cứu & Triển khai, Phòng thí nghiệm công nghệ Nano – ĐH Quốc gia TP.HCM vừa chế tạo ra một thiết bị kiểm tra nguồn nước tự động, có thể kiểm tra chất lượng nước mọi lúc, mọi nơi với thời gian tương đối nhanh, chỉ trong vòng vài phút, giúp người nuôi tôm có thể dễ dàng hơn trong việc kiểm soát quá trình nuôi tôm của mình.
Thiết bị được thiết kế có hình dạng như một con rùa nước, được trang bị các đầu dò cảm biến cùng hệ thống phân tích các chỉ số nước tự động như oxy hòa tan, độ dẫn điện, độ mặn, nồng độ NH3, NO2 trong nước…
Thiết bị kiểm tra chất lượng nước có thiết kế như một con rùa
Khi sử dụng, thiết bị sẽ được thả trên mặt nước ao nuôi để đo và lấy nước ở nhiều vị trí khác nhau. Với nhiều đầu dò cảm biến, thiết bị có thể đo được nhiều thông số nguồn nước trong cùng một thời điểm. Các chỉ số phân tích này có thể thay đổi được tùy theo yêu cầu và tùy chỉnh của mỗi người dân. Sau khi phân tích về tình trạng nguồn nước, dữ liệu sẽ được ghi lại và truyền về máy tính thông qua mạng di động không dây (3G) chỉ trong vòng vài phút để người sử dụng có thể biết được nguồn nước của mình có đảm bảo hay không. Đặc biệt, hệ thống này cũng có khả năng truyền dữ liệu qua điện thoại di động, giúp người dân có thể theo dõi tình trạng nguồn nước dù đang ở bất cứ nơi đâu.
Thiết bị có thể di chuyển trên mặt nước
Dữ liệu về nguồn nước sau khi thu thập sẽ được chuyển về máy tính
hoặc truyền về điện thoại di động cho người sử dụng tiện theo dõi
Theo PGS-TS Đặng Mậu Chiến, Giám đốc Phòng Thí nghiệm công nghệ Nano, thiết bị này không chỉ giúp người dân yên tâm hơn khi kiểm soát được chất lượng nguồn nước, hạn chế khả năng dịch bệnh của tôm, mà còn giúp các doanh nghiệp kiểm soát được dư lượng chất kháng sinh trong thủy sản. Giúp cho doanh nghiệp không còn phải lo lắng khi hàng hóa bị trả về, nâng cao vị thế của ngành xuất khẩu thủy hải sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Theo Khám Phá, 01/12/2015 ,
cần mua ở đâu ạ
Laboratory for Nanotechnology
Address: Community 6, Linh Trung Ward, Thu Duc District, Ho Chi Minh City
Tel: (84-8) 3724 6823 / (84-8) 3724 6832 Ext 101 or 102 – Fax: (84-8)-37242163
Email: lnt@vnuhcm.edu.vn