Công ty Grupo Granjas Marinas, Honduras tin rằng nuôi luân trùng (rotifer) và giáp xác chân chèo (copepod) với qui mô lớn kết hợp với ao ương tôm và ao nuôi thương phẩm sẽ giúp rút ngắn chu kỳ nuôi và gia tăng năng suất tôm lên đáng kể mà không phụ thuộc vào các nguồn protein khác từ thức ăn nhân tạo. Hệ thống nuôi tôm 3 pha của họ bao gồm một ao ương nuôi tôm trung tâm, hệ thống raceway nuôi rotifer và copepod, và tôm sau khi ương sẽ được chuyển sang ao nuôi thương phẩm có diện tích lớn hơn. Hệ thống nuôi tôm nhiều pha (nhiều giai đoạn) có thể sản xuất tôm đạt trọng lượng 15 g/con trong thời gian 8 tuần với tỷ lệ sống trung bình đạt 74%.
Trong hệ thống nuôi trồng thủy sản mở, nguồn năng lượng ánh sáng mặt trời dồi dào được chuyển hóa phức tạp thông qua chuỗi thức ăn đến động vật nuôi. Nó là một hệ thống rất hiệu quả trong việc tận dụng năng lượng mặt trời để sản xuất sinh khối thứ cấp. Nguồn thức ăn tự nhiên trong ao (các sinh vật) rất quan trọng vì nó rất giàu protein và các thành phần dinh dưỡng khác rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của động vật nuôi.
Công ty Grupo Granjas Marinas, Honduras (GGM – Honduras-based Grupo Granjas Marinas) đã thành công trong việc kết hợp chặt chẽ hệ thống nuôi tôm thương phẩm với hệ thống ương nuôi thâm canh sử dụng công nghệ biofloc kết hợp với hệ thống nuôi sinh khối động vật phù du (zooplankton, ở đây là luân trùng và giáp xác chân chèo) trong một hệ thống ao nuôi nhiều pha (multi-phase ponds systems). Cho đến nay, công ty đã đưa vào hoạt động 400 ha ao nuôi cũ và đang có kế hoạch xây dựng thêm 700 ha vào năm 2015.
Nancy Murillo đang chăm sóc rotifer và copepod trong hệ thống raceway 600 tấn tại Grupo Granjas Marinas.
Quản lý hệ thống nuôi nhiều pha
Năng suất tôm cuối cùng là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống nuôi tôm tại GGM. Hệ thống nuôi tôm nhiều giai đoạn với mật độ thả nuôi thấp có ưu điểm là tốc độ tăng trưởng của tôm nhanh, tỷ lệ sống cao và chu kỳ nuôi thấp. Trước đây GGM sử dụng hệ thống nuôi hai pha (two-phase) bằng cách ương nuôi tôm giống trong ao sau đó chuyển sang ao nuôi thương phẩm lớn hơn. Tuy nhiên, ở hệ thống nuôi hai pha kích cỡ tôm sau khi ương nuôi thường nhỏ vì phải vận chuyển đến ao nuôi thương phẩm với khoảng cách xa. Đối với hệ thống nuôi 3 pha, ao ương tôm được đặt tại trung tâm giúp cho việc vận chuyển tôm tiền trưởng thành đến ao nuôi sau khi ương được thuận lợi hơn, có thể ương tôm đến kích thước lớn hơn và tôm không bị stress trong suốt quá trình vận chuyển là một chìa khóa thành công tại GGM. Ở pha đầu tiên, tôm giống được nuôi trong hệ thống ao ương trung tâm khép kín có sức chứa 1200 tấn, cùng với đó là sinh khối rotifer và copepod cũng được chuyển vào nuôi trong ao ương trung tâm để gia tăng sinh khối cung cấp cho tôm post.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống của tôm trung bình đạt 74% trong tổng số 350 ha ao nuôi và trọng lượng trung bình của tôm khi thu hoạch đạt 15-16 g/con trong thời gian nuôi 8 tuần. Trọng lượng ban đầu khi thả nuôi trong ao thương phẩm là 4.2 g/con, thả nuôi với mật độ là 8.1 con/m2. Tốc độ tăng trưởng hàng tuần đạt khoảng 1.4 g, năng suất đạt 912 kg/ha.
Paola Ordoñez đang kiểm tra rotifer nuôi trong hệ bể raceway 40 tấn.
Hệ thống nuôi nhiều pha này không những làm gia tăng hiệu quả sản xuất mà còn mở ra một cơ hội mới góp phần bảo vệ môi trường nhờ vào việc sử dụng thức ăn tự nhiên. Một lượng sinh khối rất lớn của phiêu sinh động vật giàu dinh dưỡng có thể được sản xuất trong thời gian ngắn dùng làm thức ăn thay thế thức ăn nhân tạo cho tôm, góp phần gia tăng tính bền vững và lợi nhuận cho người nuôi tôm.
Quản lý phiêu sinh động vật
Grupo Granjas Marinas tin rằng việc quản lý và đưa vào sử dụng sinh khối của phiêu sinh động vật trong qui trình nuôi tôm của công ty giúp sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng mặt trời vô tận để chuyển hóa thành sản lượng tôm thông qua chuỗi thức ăn giống như trong điều kiện tự nhiên và góp phần làm giảm sự phụ thuộc vào nguồn protein từ thức ăn nhân tạo. Copepod và rotifer là hai ứng cử viên tốt nhất để sản xuất sinh khối dùng trong qui trình nuôi của công ty vì có thể tạo ra một lượng sinh khối lớn trong thời gian ngắn, giá trị dinh dưỡng của chúng cao và dễ nuôi trong điều kiện của GGM. Sinh khối phiêu sinh động vật được nuôi ban đầu trong trại sản xuất giống trong hệ thống raceway có sức chứa 40 tấn sử dụng công nghệ nước xanh (green technology). Kỹ thuật viên của GGM hiện có thể nuôi rotifer với mật độ đạt 80 con/mL và copepod là 16 con/mL trong hệ thống raceway có sức chứa 600 tấn. Số lượng copepod cuối cùng có thể đạt 10 tỷ/ 1 hệ thống raceway trước khi chuyển xuống hệ thống ao ương tôm và tại đó nó có thể nhân lên đạt khoảng 250 tỷ con. Sinh khối copepod có thể đạt khoảng 544 kg/ha trong vòng 7 ngày. Trong khi đó, sinh khối rotifer có thể đạt 2.270 kg/ha trong 4 ngày. Nhóm nghiên cứu của GGM đang nghiên cứu phát triển công nghệ nuôi sinh khối với qui mô lớn hơn nữa trogn tương lai.
Source: Brian M. Boudreau. Multi-Phase Shrimp Production In Sun-Driven Honduran Ponds. Global Aquaculture Advocate. September/October 2014.
Theo Công ty Bioaqua Vietnam, 06/10/2014