Biển và hải đảo ngày càng trở thành nguồn lực kinh tế to lớn và không gian sinh tồn mới, đồng thời có ý nghĩa quan trọng về an ninh, quốc phòng. Vươn ra biển, khai thác đại dương đã trở thành khẩu hiệu hành động mang tính chiến lược của toàn thế giới.
Phát triển chưa xứng tầm
Việt Nam là một trong những nước có lợi thế về biển, có vị trí địa lý thuận lợi nằm trên đường hàng hải quốc tế, có cảng biển sâu, có điều kiện để phát triển hàng hải, hàng không, du lịch biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản…Với chiều dài bờ biển 3.260km, 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng với hơn 3.000 hòn đảo. Cả nước có 28 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có biển (trong đó có 10 tỉnh và thành phố có hải đảo, quần đảo) với tổng diện tích 208.560km2 chiếm 41% diện tích cả nước và 41, 2 triệu dân chiếm gần một nửa dân số Việt Nam.
Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế của biển đảo và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ chủ quyền an ninh và môi trường biển, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) ban hành Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh từ biển, giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền vững, phấn đấu đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP; 55-60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện thêm một bước đáng kể đời sống cho nhân dân vùng biển và ven biển.
Để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, từ năm 2008 Chính phủ đã ban hành và phê duyệt nhiều nghị quyết và quyết định: một số giải pháp cấp bách trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường biển; đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền và quản lý bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo; quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020; … và gần đây, ngày 6/9/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1570/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Từ khi có nghị quyết của Đảng, quyết định của Chính phủ, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp, … từ trung ương đến các địa phương đã xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình hành động cho từng lĩnh vực và ở trên địa bàn của mình bước đầu triển khai có những kết quả đáng khích lệ. Các đảo lớn như: Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân Đồn, … đã được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại dân cư, tham gia vào phát triển kinh tế, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp dầu khí có bước phát triển nhanh; bảo vệ môi trường biển đảo bước đầu được chú ý, đã có 16 khu bảo tồn biển và các vườn quốc gia ven biển và hải đảo… được thiết lập; đồng thời đảm bảo tốt công tác quốc phòng an ninh, hình thành hệ thống các khu công nghiệp, các cảng biển, cảng cá, khu du lịch từ Quảng Ninh cho đến Cà Mau…
Tính đến nay cả nước đã có 9 cảng biển và 15 khu kinh tế ven biển được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước lên đến 662.249 ha, thu hút khoảng 700 dự án do nước ngoài và trong nước đầu tư, với tổng số vốn gần 33 tỷ USD và 330.000 tỷ đồng. Số dân cư sống ở các vùng ven biển tăng lên rất nhanh, bao gồm hàng triệu người làm nghề vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ đóng sửa tàu thuyền, chế biến thủy sản, dầu khí, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, du lịch… Nhiều thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã hình thành dọc theo chiều dài ven biển của đất nước.
Tuy vậy, có thể đánh giá một cách tổng thể, sự phát triển của kinh tế biển, đảo ở nước ta vẫn chưa xứng tầm với các điều kiện và lợi thế sẵn có. Quy mô kinh tế biển của Việt Nam hiện mới chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD, trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước 1.300 tỷ USD; trong đó, Nhật Bản là 468 tỷ USD, Hàn Quốc là 33 tỷ USD. Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” mới đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải, du lịch biển. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như chế biến dầu khí, chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, thông tin liên lạc… bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mô mới chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo tuy đã được quan tâm đầu tư mới nhưng còn yếu kém. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, mạng lưới tàu thuyền, trang thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng hoá thông qua cảng trên đầu người chỉ bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan.
Nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước nên nhiều công trình đã và đang phát huy tốt hiệu quả. Tuy nhiên, theo đánh giá nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế biển, đảo từ nay đến năm 2020 cần hàng trăm nghìn tỷ đồng, trong đó từ nguồn ngân sách khoảng 60%, còn lại là các nguồn vốn xã hội. Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn; các cảng biển, mạng lưới vận tải đường không ở các vùng ven biển và trên một số đảo còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu. Bên cạnh đó, hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học – công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn… còn nhỏ bé, trang bị thô sơ. Việc phát triển kinh tế biển trong thời gian qua chưa thực sự được quan tâm đầy đủ, nhiều địa phương, các ngành, các cấp, cư dân ven biển vẫn còn thờ ơ với hoạt động bảo vệ môi trường, tái tạo nguồn tài nguyên và những tác động của biến đổi khí hậu liên quan đến sự phát triển bền vững của kinh tế biển, đảo.
Vùng biển và ven biển đang tập trung tới 3/4 khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề. Tuy nhiên, ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển – đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có các khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Đối với các lĩnh vực như chế biến sản phẩm dầu, khí, chế biến thủy, hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển hiện chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu xây dựng, hình thành và quy mô còn nhỏ. Ngay như khai thác hải sản và nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, vốn được xem là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển, đảo đóng góp đáng kể vào tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu, tạo việc làm cho người dân, nhưng hoạt động khai thác đánh bắt xa bờ quy mô còn nhỏ lẻ. Trình độ và hoạt động khai thác tài nguyên, các lợi thế của biển và hải đảo vẫn đang ở tình trạng lạc hậu so với khu vực. Nói cách khác, Việt Nam tuy là một quốc gia biển, song đến nay, chúng ta vẫn chưa thực sự phát huy được nhiều các thế mạnh, tiềm năng của biển, đảo và vẫn chưa phải là quốc gia mạnh về biển.
Giải pháp từ các chuyên gia
(1) 7 giải pháp của TS. Trương Minh Tuấn
Theo TS. Trương Minh Tuấn, Nguyên Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Thứ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông, để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội biển, đảo bền vững và đưa kinh tế nước ta tăng trưởng từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo, trong thời gian tới cần tập trung triển khai thực hiện một số nhóm giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm quốc phòng – an ninh, hợp tác quốc tế. Cùng với việc tiếp tục khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để bảo đảm về quốc phòng – an ninh, kiên quyết bảo vệ vững chắc các vùng biển và hải đảo của Việt Nam, cần tiếp tục mở rộng và tăng cường hợp tác hữu nghị với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới cũng như với các tổ chức quốc tế về các vấn đề có liên quan đến biển, đảo trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, lợi ích quốc gia và pháp luật quốc tế; cùng nhau xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Triển khai chặt chẽ việc phân vùng, bố trí dân cư ven biển với tổ chức các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển, đảo; ban hành chính sách và tạo điều kiện để người dân định cư sinh sống ổn định lâu dài trên đảo và làm ăn trên biển dài ngày. Các địa phương có biển, đảo cần xây dựng và triển khai các chương trình, giải pháp, kế hoạch phù hợp, nhằm tăng cường phát triển kinh tế theo điều kiện thực tế, thậm chí liên kết giữa các địa phương và giữa các địa phương với các ngành để đầu tư, khai thác các lợi ích từ biển, đảo một cách quy mô, hiệu quả; gắn phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, cần chú trọng quy hoạch và tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và luật pháp về lĩnh vực biển, đảo và có cơ chế phù hợp để hỗ trợ phát triển kinh tế biển, đảo. Trên cơ sở chủ trương, định hướng phát triển chung của cả nước, cần có quy hoạch tổng thể chung cũng như đối với từng khu vực, địa phương, ngành nghề phát triển. Cần tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm” dẫn đến sự phân tán, nhỏ lẻ thiếu tập trung giữa các địa phương với cả vùng, giữa địa phương với từng ngành, mà cần có sự liên kết, phối hợp với nhau. Hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ và tổ chức thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần quản lý tài nguyên, môi trường biển và khai thác có hiệu quả các nguồn lợi từ biển đảo cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm hay trong tổ chức sản xuất trên biển, đảo; đồng thời có biện pháp hỗ trợ ngư dân khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản, xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến trên biển, đảo, phát triển du lịch kết hợp với việc triển khai các dịch vụ công ích trên biển và thiết lập quan hệ sản xuất kinh doanh giữa biển, đảo với các địa bàn khác trên bờ và trong nội địa. Mặt khác, ở mức độ phù hợp cần tăng cường hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp ngoài nước để thu hút nguồn vốn đầu tư, hình thành những dự án phát triển kinh tế liên hoàn, tăng cường trao đổi, xuất khẩu.
Thứ ba, hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của vùng đảo như: du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng hải sản. Chuyển hướng mạnh mẽ cơ cấu sản xuất từ nghề cá gần bờ, ven đảo sang nghề cá xa bờ, gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Tăng cường năng lực khai thác xa bờ cho các đảo có điều kiện thuận lợi, đồng thời, khai thác tối đa các điều kiện tự nhiên thuận lợi vào nuôi trồng hải sản, dịch vụ hàng hải, dịch vụ nghề cá. Các cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng, bến cá, dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tránh bão cho tàu, thuyền và hạ tầng nuôi trồng hải sản cũng cần được đầu tư xây dựng đồng bộ, có quy mô lớn. Phát triển du lịch cũng là một trong những hướng trọng điểm, mang tính đột phá trong phát triển kinh tế biển, đảo cần được đầu tư. Một số khu du lịch sinh thái biển, đảo lớn, chất lượng cao tầm cỡ khu vực và thế giới được hình thành sẽ tạo bước đột phá cho du lịch biển, đảo nói riêng và du lịch cả nước nói chung.
Thứ tư, cần tổ chức phát triển hợp lý không gian kinh tế – xã hội vùng biển và ven biển. Phát triển vùng ven biển nhằm tạo động lực lan tỏa, biến vùng ven biển thành hậu phương, hỗ trợ cho các hoạt động trên biển thông qua các trung tâm kinh tế hải đảo. Tập trung xây dựng nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng trên các đảo và vùng ven biển, đảm bảo an sinh xã hội để người dân ra định cư lâu dài trên các đảo, vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền vùng biển, đảo. Dọc theo vùng ven biển phải kiến tạo các trung tâm phát triển, thậm chí hình thành nên các đô thị lớn ven biển, có bán kính ảnh hưởng rộng, có khả năng cạnh tranh với các mô hình, trung tâm phát triển lớn trong khu vực. Tạo ra các hành lang kinh tế ven biển với sự liên kết và mang sức lan tỏa rộng. Có chính sách thích hợp để hình thành các doanh nghiệp mạnh, đồng thời huy động các thành phần kinh tế trong nước và nguồn lực quốc tế để khai thác có hiệu quả các tiềm năng từ biển và hải đảo.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về quản lý và phát triển kinh tế biển, đảo nhằm khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo. Có biện pháp kịp thời ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, giảm thiểu tối đa sự suy thoái tài nguyên biển và hải đảo, đa dạng sinh học biển và các hệ sinh thái biển. Khẩn trương triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực, đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của biển… Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước.
Thứ sáu, xây dựng và mạnh dạn cho tiến hành tái cơ cấu ngành kinh tế biển, đảo, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương, có sự quản lý, tập trung của Trung ương, tạo nên bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới gắn phát triển kinh tế biển, đảo; đầu tư cơ sở hạ tầng cho các đảo, hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, giao thông liên lạc… đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư có chọn lọc trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển, đảo.
Thứ bảy, cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền về biển, đảo, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, công tác quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, các quy định của quốc tế về bảo vệ nguồn lợi thủy sản không chỉ với cư dân biển, đảo mà còn với toàn xã hội. Có thể mở các lớp huấn luyện, tuyên truyền giáo dục cho ngư dân hiểu và chấp hành các điều khoản của các hiệp ước, công ước đã ký giữa Việt Nam và các nước khác cũng như các quy định của pháp luật để người dân nâng cao ý thức trong khai thác, hoạt động bảo vệ môi trường.
(2) Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng trên đảo
Tiến sĩ Trần Văn, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội cho biết, theo Quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020, kinh tế đảo sẽ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 14-15%/năm. Để đạt được mục tiêu trên, nước ta sẽ hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của vùng đảo như: Du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng hải sản. Chúng ta sẽ chuyển hướng mạnh mẽ cơ cấu sản xuất từ nghề cá gần bờ, ven đảo sang nghề cá xa bờ, gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Tăng cường năng lực khai thác xa bờ cho các đảo có điều kiện thuận lợi, đồng thời, khai thác tối đa các điều kiện tự nhiên thuận lợi vào nuôi trồng hải sản. Các cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng, bến cá, dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tránh bão cho tàu, thuyền và hạ tầng nuôi trồng hải sản cũng sẽ được đầu tư xây dựng đồng bộ. Phát triển du lịch cũng được coi là hướng trọng điểm, mang tính đột phá trong phát triển kinh tế đảo trong những năm tới. Một số khu du lịch sinh thái biển, đảo lớn, chất lượng cao tầm cỡ khu vực và thế giới sẽ được hình thành, tạo bước đột phá cho du lịch biển, đảo nói riêng và du lịch cả nước nói chung.
Từ nay đến năm 2020, chúng ta sẽ tập trung xây dựng nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng trên các đảo, coi đây là khâu đột phá chính để thu hút đầu tư và khuyến khích dân ra định cư lâu dài trên các đảo, vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biển, đảo. Chúng ta phấn đấu đến khi đó, tất cả các huyện đảo, xã đảo và các đảo quan trọng khác về cơ bản đều có hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng, an ninh. Hệ thống cấp điện, cấp, thoát nước, hạ tầng thông tin-truyền thông cũng được đầu tư, nâng cấp.
Trong những năm vừa qua, Nhà nước luôn ưu tiên đầu tư cho biển, đảo trong tổng chi ngân sách Nhà nước, thể hiện sự cố gắng lớn của Nhà nước. Nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước nên đã phần nào đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế biển, đảo. Các công trình được đầu tư đã và đang phát huy tốt hiệu quả. Tuy nhiên, nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế biển, đảo từ nay đến năm 2020 cần hàng trăm nghìn tỷ đồng, trong đó từ nguồn ngân sách khoảng 60%, còn lại là các nguồn vốn xã hội.
Việc tổ chức đời sống, sản xuất của người dân trên các đảo đóng vai trò quan trọng nhất trong phát triển kinh tế biển, đảo. Các công trình phục vụ hoạt động kinh tế như: Cầu tàu, âu tàu, kho xăng dầu, cơ sở sửa chữa tàu, thuyền, tồn trữ và cung cấp nước ngọt, kho lạnh, cấp đông bảo quản hải sản, cung ứng nước đá, cung ứng vật tư nghề cá, trạm y tế,… cần được tiếp tục đầu tư. Từ nhiều năm nay, bà con ngư dân khi ghé các đảo đã được cung ứng xăng, dầu, nước ngọt, chăm sóc y tế, sửa chữa tàu, thuyền, ngư cụ. Các chương trình đầu tư cho biển, đảo cần được tiếp tục đẩy mạnh bằng các nguồn vốn ngân sách với yêu cầu từng bước hiện đại hóa, đưa tiến bộ khoa học, công nghệ mới nhất vào các công trình, dự án, bảo đảm các công trình bền vững, đạt hiệu suất, hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, cần tổ chức tốt việc tuyên truyền về biển, đảo, công tác quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, các quy định của quốc tế về bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Có thể mở các lớp huấn luyện, tuyên truyền giáo dục cho ngư dân hiểu và chấp hành các điều khoản của các hiệp ước, công ước đã ký giữa Việt Nam và các nước khác, tham gia phát hiện sự xâm phạm của tàu, thuyền nước ngoài. Nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm hay trong tổ chức sản xuất trên biển. Các biện pháp hỗ trợ khai thác hải sản như: Cung ứng xăng, dầu trên biển, trang thiết bị thông tin hàng hải và khai thác hải sản lắp đặt trên tàu cá, đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên, cho vay vốn ưu đãi, xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến trên biển, hỗ trợ nuôi trồng hải sản trên vùng biển, lồng nuôi, con giống hải sản, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân làm dịch vụ trên biển, các dịch vụ công ích trên biển,… cần sớm được nghiên cứu, tổ chức thực hiện.
Hiện nay, kinh tế biển không chỉ đơn thuần là đánh bắt hải sản, vận tải biển, du lịch biển mà đã mở rộng sang lĩnh vực khai thác tài nguyên biển, năng lượng biển, bảo vệ và cân bằng môi trường sinh thái biển, phòng chống thiên tai, giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu do hiệu ứng nhà kính. Do đó, cần sớm nghiên cứu, phát hiện các lợi thế so sánh, phát huy thế mạnh của đất nước trong phát triển kinh tế biển. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận kinh tế biển, đảo một cách toàn diện, phát triển kinh tế biển, đảo theo hướng bền vững, bảo đảm quyền lợi lâu dài của đất nước theo hướng phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia giàu mạnh về biển, đảo, bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển.
(3) 6 nhóm giải pháp của chủ yếu để phát triển kinh tế biển bền vững
Theo TS. Hồ Văn Hoành, Phó Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nguồn nhân lực, nhân tài Việt Nam để phát triển kinh tế biển bền vững, cần tập trung vào 6 nhóm giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, xem đây là ba mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau. Đồng thời đề nghị Đảng, Nhà nước chỉ đạo tiến hành sơ kết việc thực hiện Nghị quyết lần thứ 4 (khóa X) và các quyết định của Chính phủ về phát triển kinh tế biển từ năm 2008 đến nay.
Hai là, xây dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương và vùng lãnh thổ, có sự quản lý, tập trung của trung ương, tạo nên bước đột phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới gắn phát triển kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo, hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch, khai thác nuôi trồng thủy hải sản, … đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, các hợp tác xã, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển…
Ba là, khẩn trương xây dựng chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển, bảo vệ môi trường sinh thái, xác định và tiếp cận cho từng lĩnh vực như: Vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, … có sự tham gia của đại diện các cơ quan ở địa phương, các chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức quần chúng, các hộ gia đình, lập bản đồ về các mối hiểm nguy, kế hoạch lưu giữ nước ngọt, áp dụng cách tiếp cận vùng để quản lý tài nguyên thiên nhiên ven biển dựa trên cộng đồng. Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng và nước mặn lấn sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải trên biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản, … để có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất ứng phó với bão tố, sóng thần…
Bốn là, tăng cường đầu tư xây dựng mới và củng cố hệ thống đê biển vững chắc, kiện toàn hệ thống thông tin truyền thông, hệ thống cảnh báo sớm sóng thần và dự báo thời tiết, phát triển hệ thống rừng và rừng ngập mặn, trước mắt triển khai sớm hệ thống đê biển ở vùng thấp và vùng ngập nước. Ưu tiên giải quyết di dời cơ sở hạ tầng, dân cư ở những vùng có nguy cơ ngập nước, bổ sung lực lượng lao động có chất lượng cho huyện đảo và quần đảo.
Năm là, khẩn trương triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực: tuyển chọn, lai tạo giống cây lương thực, cây công nghiệp, giống nuôi thủy, hải sản, … Đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ mới hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của biển,… Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước…
Sáu là, gấp rút đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành kinh tế biển và cộng đồng cư dân ven biển không những có trình độ chuyên môn mà còn có kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 80%. Đồng thời đề nghị Chính phủ giao cho các ngành chức năng đưa nội dung giáo dục về kinh tế biển, biến đổi khí hậu, bảo vệ chủ quyền biển đảo và chương trình giảng dạy ở các cấp học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học thuộc hệ chính quy về không chính quy.
Trong tương lai gần, ngành kinh tế biển sẽ giữ vai trò chủ yếu để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo cho dân tộc ta giàu mạnh và phát triển.
Tài liệu tham khảo:
1. 6 nhóm giải pháp phát triển kinh tế biển, Theo Báo điện tử Chính phủ.
2. Việt Nam với mục tiêu phát triển kinh tế biển, đảo bền vững trong “thế kỷ của đại dương”, Theo Tuyên giáo.
3. Phát triển bền vững kinh tế biển, đảo, CLB Thuyền trưởng Việt Nam.
Theo ncseif.gov.vn, 01/12/2014 ,
3 bình luận trong “Một số giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững từ góc nhìn chuyên gia”